Đặt hẹn Luật sư
Định cư Mỹ
Định cư Canada
Định cư Châu Âu & Caribê

Nền Giáo Dục Đại Học Tại Canada

Nhận tin tức mới
Nền Giáo Dục Đại Học Tại Canada
17/06/2017
Bài viết này trình bày một số dữ kiện về hệ thông giáo dục đại học tại Canada không ngoài mục đích để bạn đọc có thêm thông tin khách quan và giúp học sinh trong nước có thêm tài liệu tham khảo trước khi quyết định đi học ở nước ngoài.

Đôi nét về nền giáo dục đại học tại Canada

Nền giáo dục đại học tại Canada là một tập hợp của các hệ thống đại học và cao đẳng tại 10 tỉnh bang (province) và 3 lãnh địa (territories). Theo Hiến pháp Canada, định chế giáo dục đại học thuộc quyền và trách nhiệm của chính phủ tỉnh bang. Tuy thế, hệ thống giáo dục đại học tại Canada tương đối khá đồng nhất.
Sau 12 năm ở bậc tiểu và trung học, học sinh sẽ tiếp tục học nghề ở các trường cao đẳng để đi làm hay học tiếp ở bậc đại học. Quebec, tỉnh bang dùng tiếng Pháp là ngôn ngữ chính, có một hệ thống giáo dục không giống những nơi khác. Ở đây học sinh học xong trung học, sau khi hoàn tất lớp 11, sẽ vào học tại các ‒ trường cao đẳng (College d’enseignement generale et professionel hay CEGEP tạm dịch sang tiếng Anh là General and Vocational College) để học nghề – học trình 2 hay 3 năm – hay theo học trình 2 năm để chuẩn bị vào đại học. CEGEP tại Quebec có cả trường công lập và tư thục. Theo Association of Universities and Colleges of Canada, AUCC, có khoảng 175 trường cao đẳng, viện kỹ thuật, và CEGEP tại Canada.
Có khoảng 900.000 sinh viên theo học toàn thời gian tại các trường này trong năm 2006. Hệ thống đại học công lập tại Canada được xem tương đương với đại học ở các quốc gia Anh, Mỹ.
Tại Canada, đại học tư là thiểu số – chỉ có ở 4 tỉnh bang Alberta (1), British Columbia (4), Manitoba (1) và New Brumswick (4) – và không phải là những đại học hàng đầu của quốc gia này. Đây là một điểm khác với đại học ở Mỹ (MIT, Harvard, Standford, Princeton, v.v… những trường danh tiếng thế giới này là những đại học tư).
Tại Canada có 95 đại học và trường cao đẳng – hoạt động không vì lợi nhuận – cấp văn bằng bậc đại học là thành viên của Hội các Đại học và Cao đẳng Canada (Association of Universities and Colleges of Canada, AUCC).
Theo AUCC, tính đến cuối năm 2009 có 870.000 sinh viên toàn thời gian theo học đại học, 733.500 sinh viên bậc cử nhân và 136.500 sinh viên bậc cao học và tiến sĩ.
Một con số đáng lưu ý, đã trở thành khuynh hướng ở đại học Canada từ nhiều năm qua: phụ nữ ghi danh vào đại học vượt xa số đàn ông với tỉ số 57/43. Trong năm 2008 số phụ nữ tốt nghiệp đại học nhiều hơn đàn ông, trừ ở bậc tiến sĩ. Cũng trong năm 2008, gần 8% sinh viên tốt nghiệp đại học là sinh viên nước ngoài (10 năm trước tỉ lệ này là 5%).
Tính đến năm 2008, hội viên của AUCC có 42.000 giáo sư giảng dạy. Năm 1976 tỉ số nữ giáo sư đại học là 1/7. Đến nay con số này đã tăng lên thành 1/3.
77.000 sinh viên ngoại quốc học toàn thời gian và 10.000 học bán thời gian đóng góp khoảng 6,5 tỉ đô-la vào nền kinh tế Canada. Đứng đầu bảng gởi sinh viên đến học tại Canada là các quốc gia Trung Quốc (15.000), Hoa Kỳ (7.400), Pháp (6.900), India (2.800), South Korea (2.600). [Trích Quick Facts, AUCC].
Một cách đơn giản đại học tại Canada có thể xếp vào 3 loại:
  • Đại học bậc cử nhân (Primary Undergraduate universities) là những đại học chú trọng về giáo dục bậc cử nhân và chỉ có một số ít chương trình cao học.
  • Đại học có chương trình cao học, tiến sĩ và nghiên cứu (Comprehensive universities) là những đại học có nhiều khoa ở bậc cử nhân cũng như có hoạt động nghiên cứu ở bậc cao học, tiến sĩ và những chương trình cấp bằng chuyên nghiệp (professional degrees)
  • Đại học tiến sĩ và y khoa (Medical Doctoral universities) là những đại học có rất nhiều khoa có chương trình tiến sĩ, hoạt động nghiên cứu năng động, và có trường y khoa.
Sau đây là bảng xếp hạng đại học Canada cuối năm 2009 do tạp chí MacLeans – tuần báo thời sự duy nhất của Canada. MacLeans bắt đầu xếp hạng đại học Canada mỗi năm từ năm 1991. Trong những cuộc xếp hạng hàng năm này, MacLeans dựa trên nhiều tiêu chuẩn khác nhau từ ngân sách chi dùng cho dịch vụ cho sinh viên, học bổng, thư viện, đến tỉ số sinh viên/giáo sư và mức ngân quỹ dùng cho việc khảo cứu do giáo sư của trường xin được, v.v…
Cũng trong những đánh giá hàng năm, tuần báo MacLeans không xét đến những đại học có dưới 1000 sinh viên theo học toàn thời gian, học những đại học có mục đích tôn giáo hay những sứ mệnh đặc biệt khác. MacLeans cũng không xếp hạng những đại học không là thành viên của Association of Universities and Colleges of Canada (AUCC).
  • Medical Doctoral Universities
    Trong hạng đại học này, trường McGill, dùng Anh ngữ trong chương trình giảng huấn, ở Montreal, Quebec đã đứng đầu bảng trong năm năm liên tiếp. McGill đạt được danh dự này một phần nhờ ở khả năng ban giảng huấn trong việc tìm được quỹ (từ chính phủ và tư nhân) dành cho nghiên cứu, và đoạt nhiều giải hàn lâm xuất sắc, phần khác do phẩm chất hàng đầu của sinh viên tốt nghiệp từ đại học này cũng như danh tiếng đã có từ trước. (Nguồn: MacLeans.ca)
  • Comprehensive UniversitiesTrong loại các đại học comprehensive tại Canada, trường Simon Fraser đã hai năm liền đứng đầu bảng. SFU hoạt động tại 3 khuôn viên ở Burnaby, Surrey và Vancouver thuộc tỉnh bang British Columbia. Lý do SFU được xem là đại học hàng đầu cũng tương tự như McGill, và thêm vào đó là ngân sách chi tiêu của thư viện để mua sách mới hàng năm cho sinh viên và giáo sư sử dụng.
    Tiếp theo là các đại học Victoria, Waterloo, Guelph, New Brunswick. (Nguồn: MacLeans.ca).
  • Primary Undergraduate Universities

    Ba năm liên tiếp đại học Mount Allison University đứng hàng đầu trong những đại học chú trọng về giáo dục ở bậc cử nhân. Đây là một đại học ở Sackville, một thị xã chỉ có trên 5000 dân nổi tiếng về nghề làm lò sưởi và bếp. Hiện nay Sackville ở tỉnh bang New Brunswick phát triển nhờ du lịch và sinh hoạt của trường Mount Allison.
    Giáo dục của các trường cao đẳng, học viện kỹ thuật để đào tạo chuyên viên trung cấp trong mọi ngành nghề dưới bậc cử nhân là một nhu cầu quan trọng để phát triển kinh tế quốc gia. Tại Canada điểm quan trọng này thể hiện rõ rệt qua tỉ lệ gần gấp đôi (175/95) giữa các trường cao đẳng và các viện đại học cũng như số người có tay nghề hay tốt nghiệp các trường kỹ thuật với giới có bằng cấp bậc đại học.

Nguồn tham khảo:
(1) Higher education in Canada, http://en.wikipedia.org/wiki/Higher_education_in_Canada
(2) Association of Universities and Colleges of Canada, http://www.aucc.ca/can_uni/our_universities/index_e.html
(3) Council of Ministers of Education, Canada (CEMC), http://www.educationau-incanada.ca/index.aspx?lang=eng
(4) “Our 19th Annual Rankings”, Mary Dwyer, MacLeans.ca On Campus, November 5th, 2009, http://oncampus.macleans.ca/education/2009/11/05/our-19th-annual-rankings/
(5) “College Studen Survey 2010”, MacLeans.ca On Campus, http://oncampus.macleans.ca/education/college-student-surveys-2010/
(6) Statistics Canada, Census 2001 và Census 2006
(Cre: DCVOnline)